Phụ nữ Việt Nam có nhiều phẩm chất tuyệt vời, đó là tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang, nhiệt tình, yêu thương, kiên cường, linh hoạt,...
Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị là tấm gương điển hình nhất về hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam anh hùng. Ngay từ thuở đầu của lịch sử, Hai Bà Trưng
đã vượt qua mọi định kiến hà khắc về phụ nữ của lễ giáo phong kiến để
đứng lên cầm vũ khí, kéo quân ra trận, đánh đuổi quân xâm lược, giành
lại độc lập.
Ngay sau khi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà đánh vào Luy Lâu,
khiến viên Thái thú Tô Định phải "cắt tóc, cạo râu, vứt bỏ ấn tín, trà
trộn vào đám loạn quân tháo chạy về nước". Đúng như lời tuyên thệ của
Hai Bà trước khi khởi nghĩa:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng.
Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử,
với tên gọi Trưng Nữ vương.Sau khi cuộc khởi nghĩa này bị quân Đông Hán
dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại, tục truyền rằng vì không muốn chịu
khuất phục, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng sông
Hát Giang tuẫn tiết, địa danh Hát Môn - Hát Giang là nơi thánh tích Hai
Bà dựng cờ khởi nghĩa chống quân Đông Hán xâm lược và cũng là nơi Hai Bà
hóa thân vào cõi bất diệt. Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng là Di tích lịch
sử Quốc gia đặc biệt, ngôi đền Hát Môn cổ kính với nhiều hàng cây cổ
thụ, khung cảnh trang nghiêm yên tĩnh quanh năm.
Nối tiếp tinh thần của Hai Bà Trưng, sau gần 2 thế kỷ, vùng núi Cửu Chân (Thanh Hóa) xuất hiện phụ nữ anh hùng khác là Triệu Thị Trinh.
Triệu Thị Trinh hay Triệu Quốc Trinh, Triệu Ẩu, hay Bà Triệu
sinh ngày 2 tháng 10 nǎm 226 (Bính Ngọ) tại miền núi Quân Yên (hay Quan
Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn),
xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình hào
trưởng. Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người.
Nhân dân còn
truyền tụng các câu nói đầy khí phách của bà: “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ
thiếp người!”Năm 248, Bà Triệu phất
cờ khởi nghĩa ở vùng núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa). Đông đảo nhân dân
khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ (Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ) nổi dậy hưởng
ứng. Bà Triệu đã chỉ huy nghĩa quân đánh thắng nhiều
trận, quân Ngô tan rã. Bọn quan lại thống trị từ Thứ sử Giao Châu trở
xuống đến các huyện lệnh đều bị giết hoặc chạy trốn. Cả Giao Châu chấn
động.
Nhà Ngô phải cử danh tướng Lục Dận đem quân sang đàn áp
cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân đã chiến đấu anh dũng, kiên cường nhưng vì
lực lượng quân sự còn yếu nên đã thất bại. Bà Triệu Thị Trinh hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).Trên núi Tùng hiện có mộ Bà Triệu và dưới chân núi Tùng là Đền thờ chính của Bà Triệu,
cạnh quốc lộ số 1, thuộc Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa. Hội đền hằng năm
vào ngày 21 tháng hai âm lịch. Nội 137km.Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu là
một cuộc khởi nghĩa lớn, có thanh thế vang dội, là đỉnh cao của phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ II, III. Cho đến nay, nhân dân
cả nước còn lưu truyền hình ảnh Bà Triệu và hoạt động của quân khởi
nghĩa.
Khởi nghĩa Bà Triệu thất bại, nhưng hình ảnh người con gái
kiên trinh bất khuất, người nữ anh hùng dân tộc siêu việt quyết nối chí
Bà Trưng "giành lại giang san, cởi ách nô lệ" muôn thuở không mờ trong tâm trí phụ nữ và dân tộc Việt Nam.
3. Nguyên phi Ỷ Lan (1044 – 1117)
Nguyên phi Ỷ Lan là phi
tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông, mẹ ruột của Hoàng đế Lý Nhân Tông, thụy hiệu là
Linh Nhân Phù Thánh hoàng hậu. Thân phụ của bà là Lê Công Thiết, thân mẫu là Vũ
Thị Tình, bà hạ sinh được Hoàng thái tử Lý Càn Đức và Minh Nhân vương. Bà đã hai lần đăng đàn nhiếp chính, đưa đất
nước dưới triều Lý phát triển hưng thịnh, những đóng góp cho triều Lý nhất là về
Phật giáo và tài năng trị nước của bà đều được sử gia khen ngợi và tán dương.
Theo sách Đại Việt sử
ký toàn thư: năm Giáp Thìn (1064), vua Lý Thánh Tông đến chùa Thổ Lỗi cầu tự và
mở hội tuyển cung nữ. Song có nguồn lại cho rằng mùa xuân năm 1063, vua Lý
Thánh Tông cầu tự ở chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), qua hương Thổ Lỗi nhìn thấy
người con gái tựa vào cây lan và cất tiếng hát trong treo nên đưa người con gái
đó vào cung. Khi vào cung, bà được phong làm Ỷ Lan phu nhân, nơi ở là Du Thiền
các.
Tháng
2 năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, Nguyên phi
được vua trao quyền điều khiển chính sự với sự giúp sức của Lý Đạo Thành – Thái
sư đầu triều đương thời. Ở lần thứ nhất đăng đàn nhiếp chính, Nguyên phi giúp sức
nội trị, cảm hóa được lòng dân, trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật Giáo, dân gọi
bà là Quan Âm.
Tuy vậy,
để có thể có quyền hành nhiếp chính đất nước lần thứ hai, bà đã mưu kế
dựa vào Lý Thường Kiệt, phế truất và sát hại Thái hậu nhiếp chính tiền
nhiệm là Thượng Dương Hoàng thái hậu. Lúc này, bà được tôn làm Hoàng
thái hậu nhiếp chính. Việc
làm này đã gây nên nhiều tranh cãi xung quanh bà.
4. Từ Thục phu nhân
Từ Thục phu nhân tên thật là Nhữ Thị
Thục, người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, xứ Hải Dương, nay thuộc xã
Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
Bà
sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng danh giá, con gái của quan
Thượng thư bộ hộ, tiến sĩ Nhữ Văn Lan dưới thời vua Lê Thánh Tông. Mặc
dù xuất thân quý tộc nhưng ngoài 20 tuổi bà mới kết duyên cùng ông
Nguyễn Văn Định – một thầy đồ ít tiếng tăm, vốn không phải dòng dõi danh
gia, sinh trưởng tại huyện Vĩnh Lại, nay là Vĩnh Bảo, nằm cách huyện
Tiên Minh một khúc sông nhỏ. Tương truyền, bà đã tính toán cẩn thận ngày
giờ hợp cẩn để sinh ra Nguyễn Văn Đạt (tên khai sinh của Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm) và bà cũng chính là người có sức ảnh hưởng lớn trong
giáo dục cũng như hình thành nhân cách của con mình.Bà
là hình mẫu người phụ nữ rất hiếm gặp trong lịch sử Việt Nam: thông
minh, quyết đoán, học rộng, giỏi văn chương, kinh sử, lại tinh thông cả
dịch lý, tướng số, mang chí lớn của bậc trượng phu. Bà tâm niệm rằng:
nếu không lấy được chồng làm vua thì con bà sinh ra sau này cũng phải
làm vua một nước. Sau này, bà được vua Mạc phong tặng cho tước hiệu Từ Thục phu nhân.
5. Từ Dụ Hoàng thái hậu (1810 – 1902)
Nghi Thiên Chương Hoàng hậu hay Từ Dụ Hoàng thái hậu tên thật
là Phạm Thị Hằng, xuất thân từ dòng họ Phạm Đăng thị, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định,
nay là thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang. Phụ thân bà là Phạm Đăng Hưng –
danh thần của nhà Nguyễn, mẫu thân bà là Phạm phu nhân.
Bà là chính thất Quý phi của Thiệu Trị Hoàng đế, mẹ ruột của
vua Tự Đức. Từ Dụ Hoàng thái hậu nổi tiếng là một người đức hạnh, xuất thân cao
quý, thông kinh sử, có đức hiền, biết yêu dân thương con. Bà hạ sinh được hai công
chúa, một hoàng tử và tại vị ở triều đình Huế trong vòng 55 năm, từ lúc bà trở
thành Hoàng thái hậu dưới thời Tự Đức năm 1847 cho đến khi qua đời vào năm 1902
dưới thời Thành Thái.
Danh hiệu của bà được đặt cho Bệnh viện phụ sản lớn nhất ở
TP. Hồ Chí Minh – Bệnh viện Từ Dũ.
6. Ngọc Hân công chúa (1770 – 1799)
Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu tên thật là Lê Ngọc
Hân, là công chúa tài sắc vẹn toàn nhà Hậu Lê.
Ngọc Hân công chúa là con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông,
thân mẫu là Chiêu nghi Nguyễn Thị Huyền, người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ
Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội.
Năm 1786, Ngọc Hân vâng mệnh vua cha kết duyên cùng người anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ, khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi.
Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang
Trung đã phong cho Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng hậu. Đến năm 1789, sau khi đại
thắng quân Thanh, ông lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng hậu.
Ngọc Hân công chúa hạ sinh được 2 người con: công chúa Nguyễn
Ngọc Bảo và hoàng tử Nguyễn Quang Đức. Khi Quang Trung băng hà (năm 1792), bà
đã viết bài Tế vua Quang Trung và Ai Tư Vãn để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng
như niềm tiếc thương vô hạn cho người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ.
Triều đình Tây Sơn cũng lâm vào cảnh suy thoái, khiến cô cùng hai con nhỏ phải
gắng gượng. Đến năm 1799, Ngọc Hân mất, vài năm sau đó hai người con của cô
cũng qua đời.
7. Lý Chiêu Hoàng
Lý Chiêu Hoàng còn gọi là Lý Phế hậu hay Chiêu Thánh hoàng hậu,
vị Hoàng đế thứ 9 và cuối cùng của triều đại nhà Lý từ năm 1224 đến năm
1225. Trong lịch sử Việt Nam, bà là vị Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất,
đặc biệt hơn là được chính Phụ hoàng Lý Huệ Tông ra chỉ truyền ngôi, dù
bên trong là sự sắp đặt đầy cưỡng ép của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ
Độ, hiện đang nắm quyền lực trong triều.
Năm 1226, Chiêu Hoàng được Trần Thủ Độ sắp xếp nhường ngôi cho Trần Cảnh
(Trần Thái Tông), triều đại nhà Lý cai trị Đại Việt hơn 200 năm đã
chính thức kết thúc. Sau khi nhượng vị, Chiêu Hoàng trở thành Chiêu
Thánh hoàng hậu của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 (lúc
đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bấy giờ bà không sinh được con nối dõi.
Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, người kế vị ngôi hoàng hậu sau đó, chính
là chị ruột của bà.
Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê
Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với
nhau hơn 20 năm và sinh được 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là
Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1
năm. Cuộc đời của bà đầy phức tạp và bi kịch, trở thành nguồn cảm hứng
của rất nhiều tác phẩm thi ca nhạc họa.
8. Bà Hoàng Thị Loan (1968 – 1901)
Bà Hoàng Thị Loan (thân mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh) sinh
năm 1868 trong một gia đình Nho học, nhưng mọi người trong gia đình đều trực tiếp
tham gia lao động. Bà có dung nhan xinh đẹp, duyên dáng, tính tình thùy mị, nết
na, luôn vui vẻ hòa nhã với mọi người, chăm chỉ làm công việc. Bà lớn lên đã tiếp
thu sự giáo dục tiến bộ của gia đình, bà thuộc rất nhiều làn điệu câu ví và sự
thông hiểu đạt tới mức sâu sắc.
Bà đã chấp nhận cuộc sống vất vả, khó khăn khi kết hôn với
ông Nguyễn Sinh Sắc vào cuối năm 1883 - một người mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng hiếu
học. Bà hạ sinh được 4 người con và bằng tất cả tấm lòng yêu chồng, thương con,
Bà đã hi sinh tất cả để vun đắp nên cuộc đời và sự nghiệp đẹp đẽ của họ. Bà
Hoàng Thị Loan đã ảnh hưởng đến Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng một nền văn hoá dân
gian mang đậm bản sắc địa phương, truyền thống dân tộc, phản ánh trung thực những
khát vọng ý chí và phẩm chất của tầng lớp lao động bình dân.
Ngày 10 tháng 2 năm 1901 (tức ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý)
tại Kinh đô Huế, Bà đã qua đời ở tuổi 33 do lao động quá sức, cuộc sống thiếu
thốn dẫn đến lâm bệnh nặng.
Để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với người đã có công
sinh thành và dưỡng dục Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1984, Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Nghệ Tĩnh (cũ) và lực lượng vũ trang Quân khu 4 xây dựng khu mộ của Bà khang
trang, đẹp đẽ.
9. Nữ tướng Nguyễn Thị Định (1920 – 1992)
Nguyễn Thị Định còn được gọi là Ba Định có bí
danh là Bích Vân, Ba Tấn, Ba Nhất và Ba Hận là nữ tướng đầu tiên của Quân đội
Nhân dân Việt Nam.
Bà xuất thân từ gia
đình nông dân tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre và bắt đầu tham
gia Cách mạng từ phong trào Đông Dương đại hội năm 1936 với vai trò liên lạc, rải
truyền đơn, vận động bà con chống lại sự áp bức, bóc lột ở địa phương.
Bà được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương năm 1938 và tiếp tục tham gia các Phong trào cách
mạng.
Trong quá trình đó, bà đảm nhận chức vụ Phó bí thư Tỉnh ủy bến Tre, và
là người
trực tiếp chỉ đạo cuộc Đồng khởi Bến Tre đợt I (17/1/1960) ở ba điểm xã
Định Thủy,
Bình Khánh và Phước Hiệp thắng lợi, mở đầu cho phong trào Đồng khởi. Sau
cuộc Đồng
khởi, bà làm Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Bến
Tre. Bà được Liên Xô trao tặng Giải thưởng Hòa bình Lênin năm 1968.
Sau khi miền Nam hoàn
toàn giải phóng, bà giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy
viên Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội VIệt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam,... và Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Bà được Chủ tịch nước truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1995 - ba năm sau khi bà mất.
Đền thờ bà được lập tại ấp Phong Điền, xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến
Tre, tên của bà cũng được đặt cho nhiều tuyến đường và trường học ở Việt Nam.
10. Nam Phương Hoàng hậu
Bà là vợ của Vua Bảo Đại, ông vua cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam ham chơi, bù nhìn cho Pháp, nhưng bà là một
Hoàng hậu có đủ phẩm cách, một phụ nữ hiền thục, nhân từ và đạo đức,
đúng với cái tên của Bà - Nam Phương-hương thơm của phương Nam.
Bà tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan,
sinh ngày 14-12-1914, tại Gò Công, tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình
giàu có vào bậc nhất Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dù quê ở
Tiền Giang nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan mang quốc tịch Pháp với tên Pháp là
Mariette Jeanne, sống và học tại Sài Gòn. Năm 12 tuổi, Thị Lan được gửi
sang Pháp học trường nữ sinh danh tiếng tại Paris. Tháng 9-1932, sau
khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước.
Thời gian làm Hoàng hậu của bà Nam Phương chỉ
kéo dài hơn 10 năm, kể từ năm 1934 đến năm 1945 khi Vua Bảo Đại buộc
phải thoái vị do cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử. Ngày 30 tháng 8 năm
1945, trong tuyên bố thoái vị, Vua Bảo Đại nói: Trẫm muốn được làm dân
một nước tự do, hơn làm vua một nước nô lệ. Đây cũng là dấu mốc chấm dứt
tham vọng chính trị của Nam Phương và bà phải sống một cuộc đời xa xứ,
cô đơn lạnh lẽo cho đến cuối đời.
Trong khí thế cách mạng của toàn dân quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng, tại Huế, Hoàng hậu Nam Phương
đã thể hiện tinh thần yêu nước của mình. Ngày 17 tháng 9 năm 1945, Bà
là người đầu tiên đến nơi Mặt trận Việt Minh tổ chức “Tuần lễ vàng” tại
Huế, tự nguyện tháo hết trang sức bằng vàng mang trên người hiến tặng
cho cách mạng. Tại đây, Bà được gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng. Khi
thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, bà Nam Phương đã viết một thông
điệp gửi cho bạn bè Á châu đề nghị họ lên tiếng tố cáo hành động xâm
lược của Pháp. Thông điệp đó được Nhà sử học Pháp Jean Renaud ghi lại
trong một cuốn sách do Nhà Xuất bản Guy Boussac ấn hành tại Pháp năm
1949. Bà viết: “Kể từ tháng 3 năm 1945 nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô
hộ của người Pháp. Nhưng vì lòng tham của thiểu số thực dân Pháp với sự
tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt
Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành
động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước
Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng
đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi
chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi. Thay mặt cho
hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và
bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các Chính phủ của
khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân
chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào
chúng tôi”.
Với tư cách hoàng hậu, Nam Phương đã giúp
cho vua Bảo Đại trong các hoạt động ngoại giao, đón tiếp các quốc khách,
giao thiệp với Pháp. Nam Phương là vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam đầu
tiên được giao phụ trách các công việc xã hội, làm khuyến học, khen
thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ người nghèo, đề cao vai trò của người phụ
nữ trong xã hội.Hoàng hậu Nam Phương có với Bảo Đại 5 người con. Hai
hoàng tử và ba công chúa.
Nam Phương Hoàng hậu
rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con
tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nước
Pháp. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963.
11. Chị Võ Thị Sáu
Cuộc đời chị Võ Thị Sáu trở thành huyền thoại, sống mãi cùng dân tộc bởi "có những cái chết trở thành bất tử".
Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống yêu nước, lại
chứng kiến cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, chị Sáu đã không ngần
ngại cùng các anh trai tham gia cách mạng.
Tháng 11/1948, Võ Thị Sáu mang
theo lựu đạn, trà trộn vào đám người đi làm căn cước. Giữa buổi, chị
ném lựu đạn vào nơi làm việc của Tòng, hô to “Việt Minh tấn công” rồi
kéo mấy chị em cùng chạy. Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng
không chết. Tuy nhiên, vụ tấn công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không
dám truy lùng Việt Minh ráo riết như trước.
Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu
tiếp tục nhận nhiệm vụ ném lựu đạn, tiêu diệt hai chỉ điểm viên của
thực dân Pháp là Cả Suốt và Cả Đay rồi không may bị bắt. Trong hơn một
tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, dù bị giặc tra tấn dã man, chị không
khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa. Chị Sáu tiếp tục làm liên lạc cho các đồng chí trong khám, cùng chị em tại tù đấu tranh đòi cải thiện cuộc sống nhà tù.
Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của Võ Thị Sáu,
thực dân Pháp và tay sai mở phiên tòa, kết án tử hình đối với nữ chiến
sĩ trẻ. Chúng chuyển chị cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn
Đảo.
Nhờ sự kiên cường, dũng cảm, trung thành, Võ Thị Sáu được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam và công nhận là Đảng viên chính thức ngày đêm trước khi hy sinh.
12. Bà Tôn Nữ Thị Ninh
Gốc gác cung đình Huế, người phụ nữ có vẻ đẹp bề ngoài cổ điển Tôn Nữ Thị Ninh
lại là điển hình vượt qua mọi định kiến. Mỗi khi xuất hiện, cho dù là ở
hoạt động ngoại giao, giáo dục hay văn hóa, trong những cuộc nói chuyện
với sinh viên hay hoạt động từ thiện, xã hội, bà lúc nào cũng gây ấn
tượng về sự lịch thiệp, duyên dáng, và đặc biệt là tầm vóc trí tuệ.
Trí
tuệ mẫn tiệp, sắc sảo và tính cách sắt đá, cương quyết, bà đã công tác
trong ngành ngoại giao hơn 20 năm, trở thành chiếc cầu nối thế giới và
VN, đảm nhiệm rất nhiều vị trí quan trọng, hỗ trợ cho phái đoàn của
Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tại các vòng đàm phán
Hiệp định Paris, đại sứ ở Bỉ, Luxembourg, kiêm trưởng phái đoàn đại diện
VN với Liên minh Châu Âu tại Brussels (Bỉ), đại sứ đặc mệnh toàn quyền
của VN tại Liên minh Châu Âu, Phó Chủ tịch Ủy ban đối ngoại quốc hội,
Đồng chủ tịch nhóm đối thoại Việt-Mỹ về chất độc da cam/dioxin; Phó chủ
tịch Ủy ban Hòa bình VN, Chủ tịch Hội đồng sáng lập Đại học Trí Việt…
Trong
suốt quãng đời hoạt động ngoại giao, nhiều lần bà khiến mọi người bất
ngờ vì cách tranh luận thẳng thừng, khí khái, truyền thống được thừa
hưởng từ gia đình gốc Huế, khác hẳn với vẻ bề ngoài dịu dàng, kín đáo mà
vẫn quyến rũ. Là phụ nữ, để có thể hoạt động được trong ngành ngoại
giao đã khó, kết hợp được cương - nhu càng khó hơn, và quan trọng nhất,
theo bà, là phải không được khóc…
Điều này đúng cả trong những
chuyện lớn lao như khi phải đấu tranh cam go với các bên quanh bàn đàm
phán để có thể giành được chiến thắng, tôn vinh dân tộc; mà cũng đúng
ngay cả trong những chuyện đời thường như vượt qua định kiến về “phái
yếu” vốn bị “đóng đinh” là nhỏ nhen, không có chiến lược, thiếu tầm
nhìn… trong con mắt một nửa còn lại của thế giới.
Vượt qua định kiến, lao vào gian khó và tỏa sáng với thành công rực rỡ, Tôn Nữ Thị Ninh
tự chọn cho mình hình ảnh “ngọn lửa trên cao” để thể hiện một cuộc đời
luôn rực cháy, thôi thúc bởi hoài bão và mong muốn truyền lửa tri thức
và văn hóa đến giới trẻ.
13. Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
Với nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, cái tên Nguyễn Thị Bình đã trở nên quá đỗi thân quen, gần gũi.
Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927) là một nữ chính trị
gia nổi tiếng của Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị
Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội
nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973.
Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm
1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định. Bà cũng từng
giữ chức vụ Phó Chủ tịch nước Việt Nam từ 1992 đến 2002.
Sau khi nghỉ hưu vào năm 2002, bà tiếp tục làm Chủ tịch của Quỹ Bảo
trợ trẻ em Việt Nam. Năm 2003, bà thành lập Quỹ Hòa bình và phát triển
Việt Nam và làm Chủ tịch của tổ chức này cho đến nay. Ngoài ra, bà cũng
là Chủ tịch danh dự của Hội nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam kể
từ khi hội này được thành lập vào tháng 1/2004. Năm 2001, Chủ tịch nước
Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận
những công lao to lớn của bà đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Những Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Nhất Trong Lịch Sử Việt Nam